Bóng mát của thần linh


Đấy là một ngày giữa tháng 7, trời nắng gắt bao phủ cả vùng biên viễn điệp trùng đồi núi, không khí ngột ngạt, oi bức tràn xuống con đường ngoằn ngoèo. Từng nhóm người vui vẻ, khệ nệ bưng mâm cỗ đi từ nhà và các xóm nhỏ nhanh chóng đến nơi họ định trước. Ở đó, dưới tán một cây rừng cao lớn, mọi người cẩn trọng đặt đồ ăn thức uống do mình chuẩn bị lên trên nền sàn gỗ của “căn chòi” nhỏ còn vướng vất lau sậy và cỏ dại. Từ thời khắc ấy cho đến hơn tiếng đồng hồ sau, họ đứng vây quanh, chăm chú quan sát động tác và lời khấn lầm rầm của người đàn ông lớn tuổi mà họ gọi là thầy mo. Tiếng cồng chiêng và trống vang lên phụ họa theo nhiều nhịp điệu thanh giáng khác nhau….

1./.Quang cảnh của nghi lễ này đã trở nên quan trọng và đáng mong chờ nhất hằng năm của cộng đồng người Thái và Mường tại bản Tài Chánh, xã Mường Lý, huyện Mường Lát, Thanh Hóa. Được tổ chức định kì thường niên vào ngày 16 tháng 6 (âm lịch), lễ cúng thần bản, diễn ra vào đúng thời điểm vừa kết thúc thu hoạch mùa màng, bắt dầu tiến hành mùa lúa mùa nương mới, là dịp để cầu xin thần linh phù trợ việc cày cấy gieo trồng thuận lợi.Trước ngày làm lễ, dân bản phải họp để thống nhất việc chuẩn bị đồ cúng của mỗi gia đình bao gồm một gà, một chai rượu và bánh kẹo. Vào ngày chính lễ, đồ cúng đặt ở “thiêng sần” (chính là “căn chòi” mà chúng tôi vội vàng định danh) bao gồm 12 cuộn vải, 12 đĩa trầu không, 12 chai rượu (con số 12 ở đây hàm ý là sự trọn vẹn, đầy đủ trong 12 tháng của năm), 2 chĩnh rượu cần. Tiếp đó, thầy mo lần lượt tiến hành các nghi thức cúng tế. Đầu tiên, là bài cúng thỉnh gọi ma rừng về để ăn trầu, uống rượu và chờ lễ cúng cơm. Nội dung bài cúng này có tính chất giãi bày lí do, lời lẽ mang màu sắc cung kính thỉnh cầu: “Dân bản năm nay còn đói còn nghèo, ruộng nương chưa tốt, người ốm người đau còn nhiều, vật nuôi không phát triển nên làm lễ này cầu xin thần bản  phù hộ, chăm lo sao cho mọi việc như ý”. Trong khi cúng, mỗi mâm sẽ được thắp một bó hương, và khi kết thúc bài cúng, thầy mo sẽ tung ba miếng gỗ (tiếng Thái gọi là “toóc téc”) nhỏ bằng đốt tay để xem ma rừng đã chấp thuận lời cầu xin hay chưa (miếng toóc téc sẽ lật sấp hoặc ngửa). Tiếp đó là cúng mời cơm. Thầy cúng sẽ cho bày tiếp 12 mâm cơm, rượu thịt lên thiêng sần và đọc bài cúng với nội dung cơ bản: Dân bản còn gặp nhiều khó khăn nên năm nay đã soạn sửa mâm cơm xin dâng lên ma rừng mong được phù hộ, giúp đỡ mọi việc được tốt đẹp, yên lành. Đợi một thời gian hương khói, khi chuẩn bị kết thúc, thầy mo lại cúng một bài cũng với nội dung thỉnh cầu thần bản ma rừng bảo trợ cuộc sống. Chưa dừng lại đó, nghi lễ cúng thần bản ở Tài Chánh còn có thêm công đoạn cúng thổ địa (“phi cháu đín”) diễn ra ngay sau cúng thiêng sần. Cúng thổ địa không đặt trong thiêng sần mà đặt điểm gần đó, với lễ vật gồm hai con gà, hai chai rượu. Phi cháu đín không chỉ là vị thần cai quản khu vực thiêng sần mà còn trông coi cả địa bàn cư trú của người dân. Kết thúc cúng thổ địa, thầy mo lại cúng ma xấu, ma ác. Lễ vật để cúng ma xấu là thịt chó thui, vịt luộc (theo lí giải của người dân, chó là con vật xấu xí nhất, thường đem lại xui xẻo). Cúng ma xấu là nghi thức cuối cùng, sau đó, thầy mo sẽ dọn một, hai mâm cỗ để dân bản cùng ăn tại thiêng sần. Trong quá trình cúng lễ này, chiêng trống sẽ được tấu lên theo quy định. Và khi kết thúc lễ cúng, người dân sẽ đánh chiêng trống từ thiêng sần về bản để bắt đầu các hoạt động vui chơi, lễ hội.

Tín ngưỡng thờ cúng bản mường của người Thái, người Khơ Mú, người Dao trải khắp hầu hết ở các bản làng Mường Lát. Tên gọi phổ biến của tín ngưỡng này là thiêng sần hoặc ít phổ biến hơn là phi sần. Hiểu một cách cơ bản nhất, tín ngưỡng thiêng sần là hình thức thờ cúng vị thần quan trọng, được dân bản tin rằng luôn giữ vai trò bảo trợ, phù hộ cho mọi mặt đời sống của người dân trong bản. Thiêng sần cũng gắn với tục thờ cúng thần rừng, thổ địa và tùy vào điều kiện kinh tế và quan niệm của bản làng, thiêng sần sẽ là nơi diễn ra nghi lễ thờ cúng thường niên và lễ hội cộng đồng.

              Thiêng sần của người Thái Mường Lát tồn tại trước hết ở dạng vật chất là một điểm thờ tương tự như miếu (đền), được dựng trên địa điểm mang tính thiêng trong bản. Miếu thờ này thường làm bằng tre và gỗ được dựng một cách đơn giản hoặc phổ biến gần đây là khung sắt lợp tôn. Diện tích thiêng sần không lớn, dao động từ 5-10m2, gồm phần nền (giữ nguyên nền đất hoặc làm gỗ, tráng xi-măng) và phần mái gắn trên bốn cột hình chữ nhật; khoảng cách từ mái xuống nền dao động từ 1-2m. Mỗi thiêng sần có một hoặc ba bát hương. Nhìn chung, thiêng sần không gây ấn tượng về qui mô to lớn hay trang trí cầu kì. Hầu hết các thiêng sần của người Thái Mường Lát đều dừng ở mức bài trí giản đơn, thấp bé, hình thức giống lán rừng với tỉ lệ kích thước rất nhỏ. Tuy nhiên, điểm độc đáo của thiêng sần lại thuộc về vị trí của nó. Thiêng sần thường tọa lạc dưới gốc cây lớn, cao vút, um tùm, men theo bìa rừng hoặc bờ suối. Nhìn từ xa, khó phát hiện thiêng sần nhưng dễ dàng nhìn thấy bóng cây cao nổi bật giữa đại ngàn. Điểm thờ này thường cách xa địa bàn cư trú của dân bản và phải được một thầy mo uy tín làm lễ lựa chọn. Thiêng sần, vì thế, đồng nghĩa với quá trình tạo lập tính thiêng, không gian thiêng để cư dân tìm đến niềm tin vào thế lực siêu nhiên bảo vệ cuộc sống và đem lại may mắn cho họ. Đó cũng nơi thể hiện ý thức xác định khu vực quần cư của bản làng; bản làng nào cũng phải có thiêng sần của mình. Với những bản Thái quần cư lâu đời, thiêng sần có thể coi là dấu chỉ để tìm hiểu về các phong tục, đời sống tâm linh của cư dân.

              2./.Khởi thủy của vị thần bản trong thiêng sần có thể là một người có công gây dựng bản làng, có ảnh hưởng lớn đến tình cảm và nhận thức của người dân. Gốc gác vị thần này, dựa theo truyện kể dân gian, có những điểm tương đồng với vị thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng. Chẳng hạn, thiêng sần của người Thái ở thị trấn Mường Lát bắt nguồn từ sự tích về một vị quan cai trị thanh liêm, chính trực dưới thời phong kiến. Do có mối giao du rộng rãi, thuận ý trên, được lòng dưới nên vị quan này đã trực tiếp góp phần giúp người dân gặp nhiều thuận lợi trong làm ăn, mùa màng tươi tốt, cuộc sống yên ổn thuận hòa. Sau khi vị quan này qua đời, để tỏ lòng thương tiếc và ghi nhớ công lao của ông, người dân trong bản đã lập miếu thờ.

              Trong nhiều nét tương đồng, thiêng sần gần với tục thờ Tướng quân Tư Mã Hai Đào, người được cho là tham gia công cuộc khai bản lập mường ở vùng phía Tây Thanh Hóa, một hành trình nhọc nhằn và phức tạp diễn ra từ thời Lê sơ đến thời Lê Trung hưng. Đó là thời kì mà các cuộc giao tranh biên giới cũng như mở rộng lãnh thổ trở thành chiến lược hệ trọng của triều đại, hút vào đó một lượng lớn tộc người thiểu số tham gia. Sau khi thắng trận, tướng quân Tư Mã thuận theo lệnh vua ở lại biên cương, trông giữ vùng đất biên viễn từ Sầm Nưa (Lào) đến Mường Thanh (Điện Biên), giúp trăm dân làm ăn dựng bản xây mường. Khi biết tin Tư Mã Hai Đào mất, dân bản lập đền thờ tại Tén Tằn, nơi giáp ranh Lào. Theo truyền thuyết, đền Tư Mã rất thiêng, xưa ai đi qua đền cũng phải thành kính tôn nghiêm, nếu đi ngựa thì xuống ngựa, nếu quan thì phải xuống võng, người mang lọng phải hạ xuống ngang đầu, người đội nón phải lật ra sau. Ngày nay, dấu tích của đền không còn nhưng người dân bản Tén Tằn vẫn tổ chức thờ cúng quan Tư Mã dưới gốc một cây đa lớn. Cây đa này tọa lạc trên khoảng đất rộng, khá bằng phẳng, cao khoảng hơn 20m, cành lá sum suê, tỏa bóng xuống dòng sông Mã cuộn chảy ngày đêm, cách Cửa khẩu quốc gia Tén Tằn khoảng 200m. Vào dịp lễ cơm mới hoặc cuối năm, người dân vẫn làm lễ cúng ở dưới gốc đa này. Họ cảm tạ quan Tư Mã đã cho họ lúa gạo bội thu, chăn nuôi trâu bò đông đàn tốt giống. Ngoài những dịp lễ chính, các hộ gia đình không may gặp khó khăn hoạn nạn, ốm đau, thất lạc người thân hoặc gia súc, mất mát vật dụng,… thường đưa đồ lễ cầu cúng thần bản mường trợ giúp. Khi việc thành như ý, phải tạ lễ chu đáo.

3./. Dọc theo con sông Mã hùng vĩ mà thi sĩ Quang Dũng từng hạ bút thần tình “gầm lên khúc độc hành” ấy là những cánh đồng ruộng bậc thang kì công. Có độ cao trung bình từ 700m trở lên, hệ thống núi ở Mường Lát chạy theo hướng Tây-Đông tạo thành những bức bình phong đồ sộ, trùng điệp bắt đầu từ tả ngạn về phía Tây Bắc đến ranh giới các tỉnh Sơn La và Sầm Nưa, Hủa Phăn (Lào) mà đứng từ xa, có thể liên tưởng đến bức họa đa màu sắc của tạo hóa, khi trắng phau, khi xám xịt, khi ngút ngàn xanh thẳm. Dịp cuối xuân, hoa xoan dọc theo các triền núi thấp đột ngột nở trắng pha tím nhạt kéo dài mênh mông vô tận. Dưới rừng xoan, nơi các bản làng nhỏ nằm cách xa nhau có khi cả chục cây số, chẳng ai bảo ai, hằng ngày hằng tháng, lam lũ gầy dựng, chắt chiu từng khoảnh ruộng bậc thang dốc đứng, nhoài mình ra phía dòng sông đỏ ối màu đất feralit. Đều đặn theo thời gian, màu xanh của lúa non và màu vàng của chín đã làm cho núi đồi như có phần mềm mại, yên bình và no ấm.

Và dẫu có thất bát, cơ cực vì thiên tai bão lũ thế nào, cư dân nơi đây vẫn không quên lời tạ ơn và cầu xin thần bản thần rừng chở che, phù trợ. Hàm ơn và kính trọng sự hiện diện vô hình của thần linh trong đời sống thường ngày, thoạt nghe có vẻ mê tín lạc hậu, nhưng lại là điểm cốt lõi để người dân kết nối với nhau, duy trì mối cộng cảm lâu dài bên cạnh yếu tố huyết tộc hoặc họ tộc. Việc giao tiếp với cái thiêng, thực ra, không chỉ là hồi quang của tư duy duy linh cổ xưa dân tộc nào cũng từng sống trải, mà còn là một nhu cầu của thời hiện đại vốn dĩ đang gánh chịu nhiều bất an, thử thách trong lao động sản xuất, mùa màng, làm ăn. Trông cậy vào sự bảo trợ của thần linh không đẩy dân chúng vào thói quen lười biếng được chăng hay chớ, mà ngược lại, giúp họ sống bình tâm, biết lắng nghe thiên nhiên và cố gắng điều chỉnh hành vi của mình sao cho hợp lí nhất. Một đời sống không có tính thiêng có khi còn đáng e ngại hơn là để nó can dự vào thế giới tinh thần của dân chúng, cho họ có cảm giác được thuộc về bóng mát của thần linh. Chỉ riêng điều đó thôi, tựa như sức mạnh vĩnh cửu, đủ để cư dân miền biên viễn Mường Lát đương đầu muôn nỗi khó khăn, sống một đời chất phác, hiền lành mà rắn rỏi.

Bình luận về bài viết này